Khác nhau giữa tội đánh bạc (điều 321) và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (điều 322).
Đầu tiên ta phải xác định hành vi đánh bạc và hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là khác nhau và thuộc các tội khác nhau.
Cơ sở pháp lý:
- Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017);
- Công văn Số: 196/TANDTC-PC V/v áp dụng điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của BLHS.
Điều 321 BLHS 2015 quy định về tội đánh bạc như sau:
Điều 321. Tội đánh bạc
1.Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Điều 322 BLHS 2015 quy định về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc như sau:
“Điều 322. Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
1.Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức, sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
b) Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần có giá trị 20.000.000 đồng trở lên;
c) Tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; phân công người canh gác, người phục vụ, sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;
d) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.3.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Phân tích nội dung tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
Tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là tội quy định trong một chương của BLHS 2015. Khách thể của các tội phạm này đều là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ cụ thể là trật tự công cộng; chủ thể các tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 16 tuổi trở lên; mặt chủ quan của loại tội phạm này là người thực hiện hành vi phạm tội có lỗi cố ý. Như vậy, để phân việt giữa hành vi phạm tội đánh bạc với hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc hay gá bạc cần căn cứ vào hành vi khách quan của từng tội phạm.
Hành vi khách quan của tội đánh bạc: hành vi khách quan của tội đánh bạc là hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền mặt hoặc hiện vật có giá trị nhất định (khoản 1 điều BLHS).
Điều luật quy định những dấu hiệu mà chỉ khi thỏa mãn dấu hiệu đó thì hành vi đánh bạc mới cấu thành tội phạm. Theo quy định của BLHS năm về tội đánh bạc thì người thực hiện hành vi đánh bạc được coi là tội phạm phải đáp ứng một trong các dấu hiệu sau:
+ Tiền hay hiện vật dùng đánh bạc có trị giá 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng;
+ Dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị sử phạt hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại điều 322 BLHS;
+ Dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại điều 322, chưa được xóa án tích.
- Hành vi khách quan của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc: hành vi khách quan của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được nhà làm luật quy định thông qua các dấu hiệu sau:
+ Tổ chức, sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
+ Tổng số tiền hoặc hiện vật Vùng đánh bạc trong cùng 01 lần có giá trị 20.000.000 đồng trở lên;
+ Tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; lặp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; phân công người canh gác, người phục vụ, sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiên để trợ giúp cho việc đánh bạc.
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại điều 321, chưa được xóa án tích.
Người thực hiện hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc chỉ cầm đáp ứng một trong các dấu hiệu trên.
So sách điểm khách nhau giữa tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
Từ quy định trên chúng ta có thể thấy rằng, nhà làm luật đã quy định rất rõ hành vi khách quan của tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc qua từng trường hợp như sau:
Điểm khác nhau thứ nhất.
Người phạm tội thực hiện hành vi khách quan của tội phạm đòi hỏi dấu hiệu “sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hưu, quản lý của mình” để cho “10 người trở lên đánh bạc trong cùng một lúc” mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh vạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên; hoặc “sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hưu, quản lý của mình” để cho “02 chiếu bạc trở lên” mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên.
Người thực hiện hành vi khách quan của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc có thể vừa là “người tổ chức” đánh bạc vừa là người “đánh bạc”, còn đối với người thực hiện hành vi khách quan của tội đánh bạc thì họ chính là người thực hiện hành vi đánh bạc trái phép. Điều luật còn quy định số người tham gia thực hiện hành vi đánh bạc trong tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là “10 người trở lên trong cùng một lúc” hoặc “02 chiếu bạc trở lên”, trong khi tội đánh bạc trong “cùng một lúc”. Ngoài ra điều luật còn quy định dấu hiệu định lượng tiền trong tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trí giá 5.000.000 đồng trở lên.
Điểm khác nhau thứ hai.
So với quy định về tội đánh bạc thì tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc phải đáp ứng được dấu hiệu định lượng gây thiệt hại tối thiểu cho xã hội của hành vi trong cùng một lần có giá trị 20.000.000 đồng trở lên, trong khi tội đánh bạc chỉ quy định đáp ứng được giấu hiệu định lượng tiền tối thiểu quy định tại cấu thành cơ bản của điều luật là từ 5.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 5.000.000 …
Điểm khác nhau thứ ba.
Tổ chức nôi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; phân công người canh gác, người phục vụ, sắp đặt lối thoát khi bị vây bắ, sử dụng phương tiên để trợ giúp cho việc đánh bạc. theo quy định này người tổ chức đánh bạc tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện hành vi phạm tội đánh bạc thậm chí còn “tiếp tay” cho người thực hiện hành vi đánh bạc “tẩu thoát” thông qua các dấu hiệu như: “tổ chức nơi cầm cố tài sản” cho người đánh bạc; “lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc”; “phân công người canh gác, người phục vụ, sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc”. Đây là dấu hiệu thể hiện rõ nhất hành vi khách quan của người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc so với hành vi “đánh bạc” quy định trong tội đánh bạc.
Điểm khác nhau thứ tư.
Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi phạm tội đánh bạc hoặc bị kết tội, chưa được xóa án tích.
Như vậy để phân biệt tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc chỉ cần căn cứ vào hành vi khách quan của hai tội này.
Đối với hành vi sử dụng internet tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Theo công văn Số: 196/TANDTC-PC của tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự.
“Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự được hiểu là việc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để đánh bạc trực tuyến (như hình thành nên các chiếu bạc online hoặc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để tổ chức đánh bạc, gá bạc).
Việc người phạm tội sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử khác như là phương tiện để liên lạc với nhau (ví dụ: nhắn tin qua điện thoại, qua email, zalo, viber…. để ghi số đề, lô tô, cá độ đua ngựa…) mà không hình thành nên các trò chơi được thua bằng tiền hoặc hiện vật trực tuyến thì không thuộc trường hợp “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự.
Như Vậy, người có hành vi phạm tội đánh bạc thông qua internet thì phải chịu hình phạt theo quy định tại khoản 2 điều 321 BLHS với mức hình phạt 05 – 10 năm tù. Người có hàng bi phạm tội gá bạc thông qua internet thì phải chịu hình phạt theo quy định tại khoản 2 điều 322 với mức hình phạt 05 – 10 năm tù.
Thông tin liên hệ tư vấn tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
Bài Viết Liên Quan