Phân chia tài sản và quyền nuôi con khi ly hôn - Giải Đáp Pháp Luật

Phân chia tài sản và quyền nuôi con khi ly hôn

Câu hỏi: 

Tôi và chồng kết hôn năm 2012 và hiện có hai bé, bé lớn 5 tuổi và bé nhỏ 2 tuổi. Khi kết hôn, tôi được bố mẹ đẻ cho một miếng đất cùng với số tiền tiết kiệm của hai vợ chồng xây được căn nhà như bây giờ và đứng tên hai vợ chồng. Vì bất đồng trong lối sống, không thể dung hòa được nên chúng tôi quyết định ly hôn. Khi giải quyết tài sản khi ly hôn, đối với căn nhà chồng tôi cho rằng đó là tài sản chung của vợ chồng nên phải chia đôi và đòi quyền nuôi cả hai đứa nhỏ. Tôi không đồng ý vì đó là đất bố mẹ tôi cho, anh chỉ góp tiền vào để xây dựng căn nhà. Mặt khác, tôi không đồng ý để anh nuôi con vì lối sống cờ bạc, không lành mạnh của anh tôi sợ sẽ ảnh hưởng đến các con.

Vậy tôi muốn hỏi luật sư, việc phân chia tài sản khi ly hôn và quyền nuôi con khi ly hôn được quy định như thế nào? Tôi xin cảm ơn

Trả lời:

Trước tiên, cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi. Về câu hỏi của bạn, chúng tôi xin giải đáp như sau:

Thứ nhất, về vấn đề phân chia tài sản khi ly hôn:

Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình quy định về chia tài sản chung của vợ chồng sau ly hôn:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”

Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình quy định tài sản riêng của vợ, chồng:

“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”

Theo những gì chị đưa ra, miếng đất là tài sản bố mẹ chị cho riêng chị nên đây vẫn thuộc tài sản riêng của chị và chị phải chứng minh được điều này (hợp đồng tặng cho,…) Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.

Đối với căn nhà, đây là tài sản hình thành trong hôn nhân nên được xác định là tài sản chung nên nguyên tắc là chia đôi có tính đến các yếu tố sau đây:

  • Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
  • Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
  • Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
  • Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

Xem thêm: Vợ đang mang thai có được ly hôn?

Thứ hai, về quyền nuôi dưỡng, chăm sóc con

Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình quy định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:

“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Cha, mẹ bị hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong một số trường hợp sau:

“1. Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:

a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;

b) Phá tán tài sản của con;

c) Có lối sống đồi trụy;

d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

2. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.”

Về nguyên tắc, pháp luật sẽ tôn trọng quyền thỏa thuận ly hôn của bai bên trong vấn đề phân định quyền nuôi con. Trường hợp không thể thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định dựa trên việc cân nhắc quyền lợi mọi mặt của con.

Riêng đối với trường hợp bé nhỏ 24 tháng tuổi thì theo quy định được giao cho mẹ trực tiếp nuôi nếu chị đảm bảo có đủ điều kiện trực tiếp chăm nom, nuôi dưỡng con.

Đối với người bố, theo dữ liệu chị đưa ra thì anh là một người cờ bạc, có lối sống không lành mạnh. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ xem xét coi đây có thuộc vào trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ hay không. Nếu có, chị có quyền được nhận nuôi 02 đứa nhỏ.

Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về việc phân chia tài sản khi ly hôn và quyền nuôi con. Tuy nhiên, việc ly hôn là một vấn đề lớn, nhất là khi các bạn đã có con chung. Vì vậy, các bạn hãy cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *